Phẩm thứ tám: Đại Quán Đảnh mạn Đà la
Nay ta lại nói Quán Mạn đà la và các Thánh chúng, tịnh cùng không tịnh, cần phát tâm Bồ đề, làm tịnh trong ngoài như nhau, không cần chọn lựa ngày giờ. Nếu chọn lựa thanh tịnh nhất nhất phải y theo trong ngoài như đã nói ở trên. Ngày, tháng, thời tiết, đất đai sạch sẽ, Phật đường, chùa chiền, chốn Lan nhã già lam, núi rừng, cây cối phải y theo bốn loại mạn đà la: vuông, tròn, ba góc, bán nguyệt và các màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. Mỗi mỗi đều y theo phương hướng mà làm mạn đà la.
Nay lược từ trong Kim Cang Đảnh Đại Tỳ Lô Giá na Kinh và mười quyển giải thích: Tô bà hô, Tô tất địa, Như ý luân, Thát cu chi, Ma Hê Thủ La, BấtKkhông quyến sách, các kinh theo nghi thức làm đàn, chọn một pháp có ba loại chỉ có màu sắc là khác nhau như: Trước tưởng năm luân (vòng tròn) như đã nói và tụng pháp giới xong. Sau đó nếu vẽ mạn đà la và tượng, kiết giới, phụng thỉnh, cúng dường v.v…đều dùng Nhất Thiết Phật Đảnh Luân Vương Tâm chơn ngôn và khế. Tịch trừ hộ thân, sau đó bắt đầu làm các pháp sự, hoà các màu sắc đều dùng hai chú ấn trên.
Nhất Thiết Phật Đảnh Luân Vương chơn ngôn: - Úm độ rô hồng hồng phấn tra.
Ấn: Hai tay xoa nhau bên trong, chắp tay lại, thẳng hai ngón giữa đầu dựa nhau, gia trì năm chỗ để hộ thân, gia trì các vật dùng, màu sắc, đất, quang hiển, thanh tịnh các vật. Nếu khi Triệu thỉnh, hai ngón giữa đưa qua lại ra vào ba lần. Nếu Phụng Tống Bổn tôn hướng ra ngoài bật ba lần. Nếu kết giới hộ thân, tịch trừ v.v… dùng Năng Thắng Phẫn nộ Minh Vương và Thủ Ấn khiến mọi sự đều thành, tất cả chỗ đều dùng.
Nan Thắng Phẫn Nộ Minh Vương chân ngôn: - Úm vi chỉ ra na độ na độ na hồng.
Nếu không có hai Minh Vương và ấn nầy, làm các pháp của Phật Đảnh không thành tựu. Cần phải làm các pháp chơn ngôn ấn khế xong, sau mới thêm hai ấn chơn ngôn nầy. Nếu không như vậy, không được vậy thì không nói chơn ngôn ấn khế nầy cho. Dùng tất cả Phật Đảnh chơn ngôn ấn, Năng Thắng Phẩn nộ Vương Chơn Ngôn tức tất cả mọi sự nghiệp đều được thành biện. Mọi việc, thỉnh triệu, kết giới, quang hiển, tịch trừ, hộ thân, hộ mình, hộ người, hộ giới đạo tràng, Phụng tống chư Tôn đều dùng hai Chơn ngôn Ấn khế. Công đức của ấn khế chơn ngôn nầy, chỉ có Phật mới nói hết được. Tất cả Bồ tát, Thanh văn, đều không hiểu hết được, vì sao? Vì tất cả Phật đảnh, Tâm là tối thượng. Trong tất cả Phật Đảnh, Tôn Thắng Phật Đảnh hay trừ tất cả phiền não nghiệp chướng, nên gọi là Tôn Thắng Phật Đảnh Tâm, còn gọi là Trừ Chướng Phật Đảnh.
Vô Năng Thắng Phẫn Nộ Vương Ấn như Phật Đảnh Tâm Ấn đổi lại, tiết trên ngón giữa phải co dựa vào tiết trên ngón giữa trái, tức thành. Pháp tắc hoạ mạn đà la: Vuông tám khuỷu, mười hai khuỷu, hoặc ba tám khuỷu, nếu vì chúng sanh mà làm thì bảy khuỷu hoặc tám khuỷu cũng được. Nếu làm lớn hoặc quan phủ trong nước tạo một trăm tám khuỷu, ít là ba tám khuỷu.
Tám khuỷu, bốn khuỷu làm chính giữa, trong vòng tròn lớn chia làm năm vòng tròn nhỏ. Bốn góc hình bán nguyệt , mỗi vòng vẽ chín Tôn vị. Trong vòng bán nguyệt vẽ Lục Túc tôn. Bốn mặt vòng tròn lớn vẽ tám cái bình, bốn bánh xe, mười sáu chày Kim Cang dựng đứng, thảy đều cột các dây lụa. Bốn khuỷu chia làm hai viện, mỗi viện hai khuỷ. Lại hai khuỷ chia ra làm hai viện, lại mỗi viện chia ra làm ba đạo. Ở viện thứ hai phía ngoài vẽ ba đạo, trắng, vàng, đỏ y nghi ba Phật Đảnh và giới, định, huệ nghĩa. Phía ngoài viện thứ ba vẽ năm đạo, trắng, vàng, đỏ, xanh, đen là nghĩa năm Phật đảnh, năm trí. Trong hai viện, chia làm ba đạo, ở trong viện thứ nhất là chư Thánh chúng ngồi xoay về phía trong. Đạo thứ hai để bảo bình, lư hương, đèn sáng, ứ già các món ăn uống, hoa quả.. Đạo thứ ba là biện sự thị giả, chỗ cho các người lui tới dâng các món cúng dường. Ở viện thứ hai cũng như vậy.
Nơi trung đài vẽ tám vòng tròn lớn, chia ra làm chín vòng, trong mỗi vòng tròn lại chia ra làm chín vòng, ở trong vẽ chín vị Thánh. Vòng tròn ở giữa vẽ Phật Tỳ Lô Giá na, bốn mặt vẽ Tôn Thắng Phật và bốn đảnh Luân Vương. Bốn góc vẽ bốn Ba la mật Bồ tát. Ở giữa hình bán nguyệt, bốn góc vẽ bốn Đại Đảnh Luân Vương, bốn cúng dường ba la mật, đều y theo pháp tắc. Viện thứ nhì hướng đông, vẽ Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi kết già phu, tướng đang nói pháp. Ở dưới toà hai bên, vẽ Đế Thích và Thiện Trụ, hai gối sát đất, chắp tay cung kính nhìn ngắm Như Lai, thưa thỉnh làm sao trừ tai nạn, làm sao được sống lâu, tại sao bảy lần sanh làm súc sanh v.v…Như vậy thưa thỉnh xong. Khi ấy Thế Tôn từ bi thương xót liền vào Trừ Chướng Tam Ma Địa, tướng như Luân Vương màu trắng, đầu đội mão báu ngũ Phật, tay cầm Kim toả câu, nơi ót chiếu hào quang quanh thân tròn như bánh xe. Khi hiện Tam ma địa nầy, mười phương thế giớ sáu lần chấn động, mưòi phương thế giới tất cả địa ngục, sáu đường, chúng sanh đoạ nơi ác đạo, thảy đều trừ diệt các nghiệp ác, không còn thọ lại nữa, đều được sanh về cõi Trời và mười phương Tịnh độ. Do Thiên Trụ Thiên tử tiêu trừ bảy lần phải sanh vào ác đạo nên gọi là Trừ Chướng Phật Đảnh Luân Vương, tức là thứ nhất trong năm Phật Đảnh Luân Vương và ba Phật đảnh tám Đại Luân Vương vậy. Hai bên trái, phải của Phật, vẽ Bồ tát Di Lặc tay cầm Pháp Giới ấn, Bồ tát Mạn Thù Thất Lợi tay cầm hoa sen xanh. Các vị đều kết Bổn ấn, một tay cầm phất và đều hướng về phía Phật. Lại hai bên phải, trái của Phật vẽ Như Lai hào tướng, Như Lai tâm, Như Lai thiệt tướng, Như Lai nhãn, Như Lai tỉ, Như Lai nha, Như Lai nhĩ, Như Lai thần, Như Lai yêu, Như Lai sóc, Như Lai vô uý, Như Lai mã âm tàng, Như Lai mi, Như Lai khẩu, Như Lai vô năng thắng Minh vương, Như Lai vô năng thắng Minh phi. Bốn góc viện, hương ba la mật tam muội da, bảo ba la mật tam muội da, hoa ba la mật tam muội da, đồ hương ba la mật tam muội da, đối nhau ở trong vòng tròn, ngoài ra Như Lai hào tướng v.v… thảy đều cầm bổn ấn khế, các thứ trang nghiêm, ngồi kiết già. Bốn mặt vẽ mười phương chư Phật và Bồ tát, bốn Đại A la hán, bốn Phật Bích Chi chia ở bốn góc mặt, ở giữa mặt phía Bắc vẽ Bồ tát Quán Tự tại, hai bên vẽ Liên Hoa bộ nội quyến thuộc, Bồ tát Đắc Đại Thế v.v…Bồ tát Bạch Xứ Tôn Quán tự Tại, Bồ tát Thất cu chi Quán tự Tại, bồ tát Bất không Quyến sách Quán tự Tại, Bồ tát Đa la Quán tự Tại, Bồ tát Như ý luân Quán tự Tại, Bồ tát Quán Thương ly Quán tự Tại, Bồ tát Phật Cát tường Quán tự Tại, Bồ tát Đại cát tướng Quán tự Tại, Bồ tát Phật Cát tường Quán tự Tại, Bồ tát Thuỷ Cát tường Quán tự Tại, Bồ tát Mã Đầu Minh vương Quán tự Tại, Bồ tát Liên Hoa Quân trà lợi Minh vương Quán tự Tại, Bồ tát Nhất kế Minh vương Quán tự Tại, các vị Thánh giả đều chấp bổn khế và trang nghiêm đầy đủ, ngồi bán già trên toà sen.
Lại ở giữa mặt phía Nam, vẽ Bồ tát Chấp Kim Cang vương Bí mật chủ, tay cầm chày Kim Cang, ngồi kết già phu. Hai bên vẽ Kim Cang bộ nội Thánh chúng, an trí thứ lớp: Bồ tát Kim Cang Mẫu, Bồ tát Kim Cang Quyền, Bồ tát Kim Cang Tỏa, Bồ tát Kim Cang Nhãn, Bồ tát Kim Cang Phẫn nộ, Bồ tát Kim Cang Sách, Bồ tát Kim Cang Quân Trà lợi, Bồ tát Kim Cang Tiếu, Bồ tát Kim Cang Hỏa, Bồ tát Kim Cang Đạt, Bồ tát Kim Cang Hỉ, Bồ tát Kim Cang Bổn, Bồ tát Kim Cang Tâm, Bồ tát Kim Cang Tô bà hô, Bồ tát Kim Cang Đồng tử, Bồ tát Kim Cang Xích thân, Bồ tát Kim Cang Thanh diện, các vị Bồ tát đều cầm chày Kim Cang, luân, quyến sánh, gậy, lòi tói, bổn ấn khế ngồi bán dà, quanh thân lửa cháy rực rỡ, anh lạc trang nghiêm nơi thân, thảy đều như pháp hình (hình đã ghi rõ trong nghi qũi).
Ở cửa phía Tây, hai bên an trí tám Đại Bồ tát là: Bồ tát Hư không Tạng, Bồ tát Địa Tạng, Bồ tát Trừ cái Chướng, Bồ tát Từ Thị, Bồ tát Mạn Thù Thất lợi đồng tử, Bồ tát Trì địa, Bồ tát Liên Hoa Thủ, Bồ tát Bí mật chủ v.v…mỗi mỗi đều chấp bổn khế ấn và trang nghiêm nơi thân đầy đủ. Ngoài viện, an trí mười Phương các thần Hộ pháp cùng các quyến thuộc, hai bên vẽ bốn trụ giả. Góc Đông Bắc, vẽ Y xá na tay cầm Đát lợi thư la, hai bên có hai thị giả tay cầm ấn khế. Cửa Đông phía Đông Bắc, vẽ Đề Đầu lại tra Thiên Vương, tay cầm đàn tỳ bà có bốn thị giả. Cửa Đông phía trên hướng Nam, vẽ Hộ pháp Đế Thích Thiên tay cầm chày Kim cang, có bốn thị giả. Bốn mặt ngoài viện, vẽ bốn Phật Bích chi, bốn Thanh văn. Góc Đông Nam vẽ Hoả Thiên Thần ngồi trong lửa, tay cầm xâu chuổi, hai bên vẽ hai thị giả. Phía Nam vẽ Diêm la vương tay cầm tử vương ấn. Diêm la phi và các loài quỉ quyến thuộc. Hai bên góc Tây Nam, vẽ La Sát vương tay cầm kiếm, có hai thị giả tay cầm đao, đều ngồi hai bên. Mặt cửa phía Tây hướng Tây Nam, vẽ Thủy Thiên Thần mặc giáp mũ trên đầu có đầu rắn, tay cầm quyển sách, có bốn thị giả quỳ hai bên chắp tay. Phương dưới cửa Bắc vẽ Địa thần, A tu la vương tay cầm bảo bình, có bốn thị giả. Cửa Nam mặt phía Tây, vẽ Nhật Thiên tử và phi cỡi xe năm con ngựa, hai tay cầm hoa sen nở, ngồi trong vòng tròn.Vẽ bảy sao y theo Bổn sắc, cầm bổn ấn, vẽ hai bên, Nhật thiên tử và quyến thuộc. Mặt phía Đông, vẽ Nguyệt thiên tử và quyến thuộc. Mặt phía Đông, vẽ Nguyệt thiên tử và phi cỡi xe năm con ngỗng, tay cầm phướn, gió trên có con thỏ ngồi trong vành trăng, có hai tám sao đều cầm bổn khế, tuỳ theo phương hướng, màu sắc, hình chư Thiên ngồi quanh Nguyệt thiên tử. Mặt Đông và Nam vẽ các Tất địa chư Tiên, có ba bốn thị giả như trên. Các Thánh chúng y theo pháp vẽ bổn hình đầy đủ, đây là Mạn đà la Thượng. Nếu như vẽ ấn khế, trên đài sen vẽ phóng ánh sáng rực rỡ, đây là Mạn đà la bậc Trung. Nếu trên đài sen vẽ các chủng tự Phạm tự phóng ánh sáng chung quanh, đây là Mạn đà la bậc Hạ. Nếu quốc vương muốn trừ tai nạn, ở giữa viện thứ ba vẽ năm non, bốn biển, vua chúa, quan binh, các thần kỳ trong nước, như pháp mà vẽ. Nếu bị nghich tặc nỗi lên ở viện thứ tư vẽ hình nghịch tặc và các hình trạng biến dị, ở trong dưới nữa mà trấn. Như vậy vẽ xong kết giới, tịch trừ, triệu thỉnh, dâng các bảo bình, lư hương đèn sáng, hoa quả, ứ già v.v…đều an trí dưới toà các Thánh vị, tuỳ theo lớn nhỏ sắp đặt. Nếu lớn một trăm tám khuỷu, ba lăm khuỷu, mười lăm khuỷu. Bảo bình hai lăm cái, nếu tám khuỷ trở lại thì mười lần một cái, hoặc sáu cái, còn các món cúng dường khác tuỳ thời mà dâng cúng. Trong chín vòng tròn ở giữa, hai viện ngoài cộng chung là mười sáu, bốn gốc bốn cửa đối nhau.
Nếu làm Mạn đà la Tăng ích, Tức tai, thì tròn; nếu Hàng phục thì làm hình tam giác; nếu Nhiếp triệu thì làm hình bán nguyệt. Các thứ khác giống nhau. Phẩm thứ Chín: Chứng Du Dà Tất Dịa
Lại nữa, như vậy vẽ mạn đà la thượng, trung, hạ, y pháp cúng dường, niệm tụng mãn mười vạn biến, tức được Thượng Tất địa; nếu một trăm, hai trăm, ba trăm cho đến bốn trăm vạn biến, dầu không tác pháp, cũng được thành tựu, được thành tựu các việc mong cầu trong thế gian, trừ những người tạo tội ngũ nghịch, phản bội ân đức. Nếu tụng đủ ngàn vạn biến, tức được Vô sanh Tất địa, thân đồng Bổn tôn; Nếu tụng mười vạn cho đến trăm vạn biến, tức có hiện tướng, không được thủ xã, một lòng chuyên chú không nghĩ khác, tự tâm làm Phật, thật trí nơi tâm tức là Bồ đề, do đó kẻ trì chỉ cầu Vô thượng Bồ đề. Có tướng hiện tự biết, không nên sanh tâm phân biệt, sẽ bị đoạ vào trong cảnh giới Tỳ na da ca. Nếu đèn tự nhiên cháy cao lên hai trượng v.v…, chưa đốt hương, lư hương tự nhiên phát lửa, hoặc phướn không có gió tự nhiên lay động, hoặc mưa các hoa v.v…răng rụng lại mọc, tóc trắng thành đen, hoặc trước có bệnh tự nhiên khỏi, hoặc phước đức tăng trưởng, hoặc ngu si tự nhiên thông minh, hoặc tự nhiên làm thơ hay văn giỏi, thế xuất thế các việc tuỳ ý đều thành: hoặc chưa hiểu chơn ngôn ấn khế, các pháp bí mật tự nhiên hiểu rõ… các việc như vậy đều do tội chướng tiêu trừ, chưa phải tướng thành tựu chân ngôn.
Hoặc thấy các cõi Phật, hoặc thấy tự thân là cõi Phật đều các pháp giới, các việc như vậy không nói hết, là tướng gần thành tựu chân ngôn cần nên cố gắng niệm tụng, tức được thành tựu, như pháp tụng trì tức được Vô sanh Tất địa. Tất địa có ba loại: Hạ Tất địa được trường sanh bất tử, làm chúa trong hàng Địa tiên, hoặc các việc trong thế gian công diệu, hợp luyện xích bạch (các pháp luyện đơn) đa văn, trí huệ, phước đức đầy đủ, sống lâu ngàn ngàn năm. Trung Tất địa là ẩn hình, làm Chuyển luân Thánh vương, sống lâu một kiếp. Thượng Tất địa là gia trì vào thuốc hiện ra ba tướng, được chứng từ Năm địa đến Bát địa, thành thân Bồ tát, chỉ trong khoảng khắc, vô lượng chư Thiên, Đại phạm, Thiên vương Đế Thích, Tỳ sa môn thống lãnh vô lượng các Thiên chúng lại nghinh đón, trong một niệm đến mười cõi vi trần các thế giới của chư Phật, trước mỗi Đức Phật thừa sự cứng dường, tùy loại chúng sanh mà hoá độ, như vậy gọi là Hữu tướng Tất địa. Niệm tụng các thứ thuốc, khí tượng, quang minh, sa hùng hoàng, ngưu hoàng, lớn nhỏ, viễn chí, long não hương, thuỷ tinh. Trân châu v.v…đều có số lượng, các khí tượng là: Phạt chiết la, chày năm chia, chày một chia, bánh xe, câu, xâu chuỗi, bảo quang v.v… tất cả thảy đều y pháp mà làm. Vô tướng Tất địa là: ba loại Tất địa. Trên là Hạ Tất địa, Trung Tất địa là Vô tướng Tất địa. Hoặc thân thành Bổn tôn, hoặc được Thân Ứng hoá, cho đến mưòi địa thành thân Bồ tát, là Trung tất địa. Thượng tất địa được ba nghiệp thành ba mật: Ba mật là ba thân, ba thân tức là trí Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai, nếu được thân Tỳ Lô Giá Na, chứng Pháp Giới Phổ Hiện Sắc Thân, cùng pháp giới đồng một để tánh, ngoài tâm ra khôngcó vật gì là sở đắc, là tướng hư không. Hư Không cùng có tướng; tâm đồng hư không. Người tu Du già cũng đồng một thể, trong một niệm vượt qua ba vọng chấp, vượt qua ba tăng kỳ các hạnh, vừa phát tâm liền thành Chánh giác, tức là Thân Tất địa là Vô tướng Tất địa, là pháp Tất địa Tối thượng. Phẩm thứ Mười: Du Dà Hộ Ma
Nay ta lại nói pháp Hộ ma. Hộ ma có nhiều thứ, nay ta lại nói bốn thứ, nhiếp được hết thảy các pháp hộ ma như là: Tức tai lư tròn, Tăng ích lư vuông, Nhiếp triệu lư bán nguyệt, Hàng phục lư tam giác. Như vậy bốn loại Hộ ma lại có hai thứ: Một là Ngoại Hộ ma, hai là Nội Hộ ma.
Ngoại Hộ ma là y theo nghi tắc độ lượng đối mạn đà la ở ngoài trừ địa, bùn đất bốn khuỷu ở giữa đào sâu một khuỷu vuông rộng v.v… cao tám chỉ, vành rộng 4 chỉ, phía ngoài để các duyên cũng rộng 4 chỉ, hai khuỷu chia ra hai bên, có bốn mặt an trí Thánh chúng. Bốn phía trãi vỏ chanh, dùng thanh gỗ mới đè lên, dùng bùn sạch làm một cái bánh xe rộng một cánh tay, cao một chỉ, có tám căm để dưới đáy lò, lấy cây phong làm củi dài một khuỷu. Khi nhen lửa, không được dùng miệng thổi, cần phải tịnh trừ lò lửa theo pháp mà làm, dùng quạt mà quạt. Đốt lửa xong, rãi nước thơm, thỉnh Hỏa Thiên ngồi vào trong lò, ném hoa vào trong lò dâng hiến nước ứ già, lấy muỗng lớn múc bơ mỗi chút bỏ vào trong lửa, làm ba lần; sau đó lấy dầu sữa lạc mật, mỗi thứ Hộ ma ba biến. Lại lấy cháo sữa cơm nếp và cháo ngũ cốc hộ ma; lại lấy hắc trầm hương, Bạch đàn hương, tử đàn hương, dài một tấc, nhúng bơ ba lần bỏ vào trong lửa; lại lấy cây bá dài mười hai chỉ, chặt hai đầu bằng, bôi bơ, quăng vào trong lửa; lại dùng dương chi (nhành dương) y trên, quăng vào lửa; lại lấy trầm hương quăng vào. Lại lấy trầm hương, bạch đàn, tử đàn, tiễn hương, các thứ bôi bơ, mật mà đốt. An tức hương, đinh hương, huân lục hương, kiên đát ra sa hương, hoà bơ mà đốt; cam tùng linh lăng hòa mật đốt; như đầu, an tức, sa dà la, long não, đinh hương hoà đậu khấu, bạch giới tử, kiên mộc, chỉ hương, trước sau mỗi thứ hộ ma ba lần. Sau đó, phụng tống Hoả thiên trở về bổn vị.
Lại thỉnh triệu Bổn tôn, dâng hoa hiến ứ già, thỉnh ngồi trong lò, khiến sanh hoan hỷ, liền lấy bơ các vật v.v..dùng muỗng lớn hộ ma ba lần, muỗng nhỏ múc hộ ma trăm tám lần hoặc ngàn lần, sau lại hộ ma mật, sửa, lạc dầu các thứ hương và ngũ cốc y như ở trên, dâng ứ già, thỉnh Bổn tôn về bổn vị. Mỗi chỗ cúng dường hương và cây đều ba lần, để cháo ngũ cốc tại trong bình, chén, trước sau tại mạn đà la các Phật Đảnh Luân Vương và chư Phật, Bồ tát ở ngoại viện cho đến các Hộ thế Thiên thần, tất cả đều hộ ma cúng dường. Theo các màu sắc, mỗi thứ hộ ma ba lần, bơ phải hộ ma cho hết, các thứ hương cúng dường hoà với cháo ngũ cốc. Trước vì quốc chủ, hoàng hậu, thái tử, vương công, tể tướng, bá quan, chúng sanh trong các giới, cho đến tự thân, mỗi loại phải ba lần hộ ma cúng dường. Sau cuối, ở bên phía lò cúng dường, cơm bánh, trái tất cả đều gia trì hộ ma. Bốn góc hoả đàn để bốn bảo bình, lư hương, đĩa trái cây v.v … thảy đều y theo đại đàn pháp: vuông, tròn, ba góc, bán nguyệt lư lửa y như đại đàn pháp mà dùng, nếu hay như vậy làm pháp đều thành tựu.
Nếu có tướng ác: khi đang làm hộ ma tự nhiên lửa tắt hoặc có khói đen hoặc có tiếng như lừa kêu là các tướng không thành. Nếu màu lửa cùng bổn pháp tương ưng tức là thành tựu, hoặc có tiếng liên tục, cùng bổn pháp không tương ưng là tướng không thành. Nếu làm pháp Tức tai lửa màu trắng, làm pháp Tăng ích lửa màu vàng, làm pháp Hàng phục lửa màu đỏ, làm pháp Nhiếp triệu lửa màu xanh. Tương tục là như tán cái, bạc chiết la, liên hoa, đạt, ánh lửa phát ra âm thanh vi diệu đều là tướng cùng bổn pháp tương ưng là tướng thành tựu. Phạm lúc niệm tụng hộ ma tác pháp, y thời mà làm, mau được Tất địa như là đầu hôm, canh hai, canh ba, làm Tức tai. Nữa đêm làm Nhiếp triệu, sáng sớm là Tăng ích, giữa trưa làm Hàng phục. Bốn thứ hộ ma, mỗi thứ, cây, hương, hình lò đều khác nhau. Tô Tất địa có nói đầy đủ, khi lấy củi làm pháp, đã có nói trong nghi Hộ ma.
Thứ hai Nội hộ ma: Ba chỗ đồng một thể là Đại mạn đà la tức Hộ ma mạn đà la. Hộ ma mạn đà la tức tụ nơi thân, nơi thân tức là Hỏa Thiên, Hỏa Thiên tức Như Lai Tỳ Lô Giá Na. Như Lai Tỳ Lô Giá Na, Hoả Thiên tự thân ba thứ không hai, không có sai biệt. Đồng một thể đầy đủ ba thân.. Đại nhật biến chiếu cả pháp giới, không nơi nào không có, không sanh, không diệt, lìa nói năng, suy nghĩ, sanh và không sanh, không gì không là Đại Nhật, gọi là Pháp thân.
Hộ ma là: phương này gọi là Hỏa Thiên. Lửa hay thiêu cây cỏ v.v… không gì còn sót. Hỏa Thiên tức là Trí. Trí hỏa hay thiêu đốt tất cả vô minh không còn dư sót. Giá Na Đại Nhật tức là Pháp thân, Hỏa Thiên Trí hỏa tức là Ứng thân. Tự thân hay trụ phương tiện tức Hoá thân, do đó kinh nói rằng: Phương tiện là cứu cánh hay làm các việc Phật, cho nên tự thân là Hóa thân. Ba thứ đều đồng một thể tánh, nhập vào năm trí luân, trên đảnh quán pháp giới chúng sanh trí, Hỏa Thiên trừ tất cả nghiệp chướng hay mãn tất cả nguyện. Bốn loại hộ ma tuỳ bổn mà làm pháp, nếu Tức tai y ngoại hộ ma hay chuyển tất cả chướng, sanh tất cả phước đức, nhất nhất y Kinh Tỳ Lô Giá Na nói mười hai loại hỏa pháp, trước sau mà dùng. Phẩm thứ Mười Một: Du Dà Cầu Hộ Pháp
Ta nay lại nói pháp cầu mưa, do vì lợi quần sanh vậy. Thời tiết nóng nảy không có mưa, cây lúa không sanh mọi vật hoang tàn, trong nước không an, hạn hán kéo dài, các loài chết khát. Hành giả thấy chúng sanh bị thọ các khổ như vậy, khởi lòng từ bi tức tạo Mạn đà la cầu mưa.
Mạn đà la lớn nhỏ tuỳ theo mà tạo, đài cao một thướt, dùng bùn sạch hòa ngưu phẩn đồ đất, thêm ở ngoài đàn bốn năm thước, dùng bùn đất sạch tô đắp, dùng bột hương hoà nước mà đồ bùn đất sạch tô đắp, dùng các bột hương hòa nước mà đồ (đắp) dưới và phía ngoài ba thướt. Mạn đà là cao một thước, bốn cửa để bốn đường. Ngoài đài một hai khuỷu hoạ vẽ tám Đại Long Vương, phi và các quyến thuộc: Đông phương, ba đầu, thân dài ba khuỷu. Nam phương, năm đầu, thân dài năm khuỷu. Tây phương, bảy đầu, thân dài bảy khuỷu. Bắc phương, tám đầu, thân dài tám khuỷu. Trung ương, chín đầu, thân dài chín khuỷu; phi cũng y như trên. Các tuỳ tùng một đầu, hai đầu, ba đầu, bốn đầu, sáu bảy, tám đầu. Đàn cầu mưa lớn nhỏ khác nhau, nếu cầu cả nước thì vuông ba tám khuỷu, nếu tỉnh, quận thì vuông mười lăm khuỷu, nếu thành ấp làng xả thì vuông tám khuỷu.
Nếu không có Chủ Thỉnh, tự mình làm thì vì pháp giới chúng sanh mà làm. Hoặc tại núi rừng, nơi lan nhã, hoặc tại chùa, tịnh xá, già lam, tụ lạc thành ấp niệm tụng. Rộng bốn khuỷu hoặc hai khuỷu, tuỳ ý lớn nhỏ. Mạn đà la chia làm ba viện, ở gữa vòng lớn chia làm năm vòng, trong mỗi vòng chia ra làm năm vòng. Ở giữa vẽ Phật Đảnh Tôn Thắng Luân Vương ngồi toà, Kim Xí Điểu Vương giương cánh giận dữ như đang muốn bắt rồng để ăn óc, đứng một chân, các rồng đều chấp tay cúi đầu. Bổn tôn cầm Kim Cang Câu, giận dữ nhìn về phía trước. Bốn vòng kia, các vòng trung tâm đều vẽ Bạch Tán cái Phật Đảnh, còn bốn vòng nọ vẽ bốn Ba la mật Bồ tát, đều ngồi toà Kim Xí điểu, hình trạng như ở trung viện, dơ chân thế như bắt rồng. Dùng bốn ấn đè nơi đuôi các rồng.
Ngoại viện bốn góc vẽ bốn cúng dường, mặt Đông vẽ Phật và hai Bồ tát, hai bên vẽ Vô Năng Thắng Vương, Nan Thắng Phẫn Nộ Vương. Mặt Bắc, nơi trung tâm, vẽ Bồ tát Quán Tụ Tại, hai bên Bộ mẫu Tôn. Bộ Tâm Tôn Minh Vương, Tôn Bà Phạ Ha Na Yết Lợi Bà Trì Minh Vương. Mặt phía Nam, vẽ Bồ tát Bí mật Chủ Chấp Kim Cang Vương, hai bên vẽ Bộ mẫu Tôn, Bộ Tâm Tôn, Quân Trà Lợi, Bồ tát Kim Cang, Phẫn nộ Đại Minh Vương v.v…Cửa Tây Nam Bắc, vẽ hàng Tam Thế, Bất Động Minh Vương, ngoại viên vẽ bốn phương, mười phương các Thần hộ giới đàn và quyến thuộc, bốn vị thị giả. Cửa Nam Đông Tây, vẽ Nhật Thiên tử, Nguyệt Thiên tử và phi, bốn mặt trên không vẽ bảy sao, hai tám sao, các vị đều cầm bổn ấn. Bốn mặt nhân xứ vẽ các Tất địa Tiên, mỗi mỗi đều có thị giả, cùng các Đại Bồ tát và các thị giả, y theo thứ lớp mà an để.
Đàn ba tám khuỷu là làm cho cả nước, mười lăm khuỷu, tám khuỷu y như trên hoạ vẽ, trong nước năm non bảy núi có các rồng đều vẽ ngoài mạn đà la. Tạo mạn đà la xong trong ngoài các viện, dâng các món ăn uống cơm canh, như Đại đàn cứng dường, ẩm thực, hương hoa như nhau. Nếu đàn bốn khuỷu hoặc hai khuỷu không cần như pháp hoạ tượng, chỉ vẽ ấn khế, hoặc vẽ chủng tự hoặc viết tên. Ngoài đất bằng hai thước ở mạn đà la dùng lá khổ luyện dã nhỏ hoà nước màu xanh. Bốn mặt vẽ các Đại Long Vương cùng quyến thuộc thị giả, cùng các phi ba đầu, năm đầu, bảy, tám, chín đầu v.v… y theo bổn phương mà vẽ nơi bốn cửa trong các giới đạo hiện ra nữa thân. Long Vương ở trung ương và phi cùng quyến thuộc hướng chư Tôn cung kính cúng đường, hàng phục mưa xuống đầy đủ. Nếu đàn ba tám khuỷu, mười lăm khuỷu trở lên để bảo bình hai lăm các; tám khuỷu trở xuống để năm cái bảo bình cũng được, mỗi ngày dùng nước mới sạch hoà ngũ cốc, ngũ bảo, bỏ trong bình, nơi miệng bình để cành lá trúc, lấy lụa xanh dài bảy, tám thước cột nơi cổ bình, trên đàn treo tám cái màu xanh, bốn mặt treo phan màu xanh, bốn bảy cái. Chánh Đông treo phan xanh bốn chín thước, các vật cứng dường hương hoa, ăn uống y như Đại đàn. Bốn mặt phía ngoài, cách đàn ba năm khuỷu, làm một lò hộ ma, đủ bốn loại. Trong lò, bốn phương vẽ chủng tử tự, chữ “A” hình vuông, màu vàng. Ở phía Đông, chữ HA màu xanh, hình bán nguyệt. Ở hướng Tây, chữ VAM màu trắng, hình tròn. Ở hướng Bắc, chữ LAM màu đỏ hình tam giác. Ở hướng Nam, đáy lò vẽ các ấn khế, hướng Đông vẽ bánh xe (luân), hướng Bắc vẽ hoa sen, hướng Nam vẽ chày Kim Cang , hướng Tây vẽ câu y theo các phương mà vẽ
Triệu thỉnh Hỏa Thiên, Bổn tôn và các Minh Vương, y như pháp hộ ma không khác, chỉ có ngày đầu là Tiêu tai, ngày thứ hai Tăng ích, ngày thứ ba Nhiếp triệu, ngày thứ tư và năm Hàng phục, thứ sáu và bảy Cực phẫn nộ hàng Phục. Nếu trong ngày có mưa, tức ngưng tác pháp, phải cần hộ ma Tức Tai Tăng ích, vì các rồng vậy. Khi Hàng phục, dùng cây gừng hai đầu nhọn dùng để chạm vào lửa, đem cây khổ luyện, gai và hắc giới tử du bôi hai đầu hộ ma, hoặc đem sáp hoà hắc giới tử độc được làm hình rồng hộ ma. Khi được mưa rồng, cầu xin hoan hỷ.
Lại pháp nơi lụa trắng, vẽ chữ Phạn chú Tôn Thắng Đà La Ni, bốn phía vẽ ấn khế gia trì niệm tụng đem quăng xuống ao có rồng, tức được mưa. Nếu trong nước, mưa gió không đều, âm dương không thuận, hạn hán lâu ngày, cỏ cây không mọc, luá thóc không lên v.v… hoặc có nghịch tặc sát hại vô số chúng sanh. Thấy việc như thế hành giả phát tâm đại từ, đại bi làm pháp Hàng phục. Do lòng từ bi, kẻ kia được sanh Thiên, không có các tội trước. Cần vì nước, trừ các chướngức được, tụng Phật Đảnh Tôn Thắng chơn ngôn một ngàn hoặc một vạn biến. Nếu vì pháp giới chúng sanh, tụng một ngàn biến, sau đó nhất nhất y pháp làm Hộ ma Hàng Phục, tức được như ý.
Lại pháp mỗi ngày bốn thời hộ ma, niệm tụng gia trì bạch giới tử ném nơi tim Long Vương một ngàn tám biến, tức được tuỳ ý.
Hoặc tưởng thân mình là thân Trừ Chướng Phật Đảnh, cỡi Kim xí Vương hung dữ bay đi muốn bắt rồng mà ăn, dùng Kim Cang Câu, móc lấy rồng tức được mưa. Hoặc mỗi ngày tụng vào bạch giới tử ném rồng hoặc hoà bạch giới tử, an tức hương, dầu xích giới tử, hộ ma ngàn biến hay trăm tám biến hoặc ở trong đàn, nơi các Minh Vương hộ ma thảy đều hàng phục như pháp mà làm, tức mưa xuống, tai nạn đều tiêu, tức cần Quán đảnh, các Long Vương rộng bày cúng dường khiến sanh hoan hỷ, tăng thêm các món cứng dường. Các thức ăn uống đem để trên lá sen đem bỏ xuống sông suối, hoặc trong ao rồng, các lụa dây ở năm phương, đem chôn duới đất, các thứ cúng Phật, Bồ tát y pháp xử trí. Khi làm pháp, mặc áo màu xanh. Trong đàn hộ ma, để năm bình các món ăn uống, y đại đàn pháp không khác; nếu không đúng như vậy, làm pháp không thành. Sau nầy có làm nữa, cần như trước đúng pháp mà làm, mau được thành tựu. Phẩm thứ Mười hai: Nhập Thành Tựu Cảnh Giới
Nay ta lại nói hành giả muốn thành tựu tướng của chơn ngôn. Nếu nói cho đều đủ hết kiếp cũng không nói đặng, chỉ có Phật mới hay nói đặng thôi. Nếu hành giả tụng trăm ngàn vạn biến tức thành tựu. Nếu khi sắp thành tựu, trước có bảy cảnh giới cát tường, phải biết hành giả mau được Tất địa. * Thứ nhất: Mộng thấy vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Phật Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Đại Như ý Quảng Đại Tôn Thắng Đại Quán Đảnh Bí Mật Mạn đà La Ấn Tam Muội Da, ta được tát cả Như Lai thọ ký hoán đảnh mạn đà la ấn tam ma địa. Ta và Như Lai một lúc cùng phát thệ rằng:”Lành thay! Lành thay! Thiên nam tử, ông được vào mười phương cõi Phật. Lui tới tự tại, trong mỗi cõi có chín hằng ha sa cu chi na dữu đa trăm ngàn tất cả Như Lai nhớ nghĩ gia bị”. Được cảnh giới nầy, nên gia công tinh tấn không nên thủ xả. * Thứ hai: Mộng thấy mười phương quốc độ ba đời tất cả chư Phật, Đại liên hoa tộc Tôn thắng Phật đảnh Đại ma ni Bảo mạn đà la ấn tam muội da cung điện. Ta cùng Như Lai thọ Đại liên hoa tộc Tôn Thắng Phật Đảnh Đại ma ni quán đảnh mạn đà la ấn tam muội da phẩm. Hiện tiền, ta cùng Như Lai cùng nói lời rằng: Lành thay! Thiện nam tử, ông được Đại Liên hoa chủng tộc tôn Thắng Phật đảnh quán đảnh mạn đà la ấn tam muội da phẩm, được chư Như Lai nhiếp thọ gia bị Đại ma ni ấn tam muội da. * Thứ ba: Mộng thấy vào mười phương quốc độ ba đời tất cả chư Phật, Đại Kim Cang chủng tộc Tôn Thắng Phật đảnh Đại ma ni bảo quán đảnh mạn đà la ấn tam muội da. Ta và chư Như Lai thọ Kim Cang chủng tộc Tôn Thắng Phật đảnh đại ma ni bảo quán đảnh mạn đà la ấn tam muội da phẩm và ta thọ tất cả Như Lai Kim Cang chủng tộc tôn Thắng Phật đảnh đà la ni tam muội da phẩm. Tất cả Kim Cang đồng khen rằng:“Lành thay! Lành thay!, Thiện nam tử, ông được các Như Lai Kim Cang chủng tộc Tôn Thắng Phật đảnh đại ma ni bảo Đại mạn đà la ấn tam muội da phẩm, được chư Kim Cang nhiếp thọ gia bị đại ma ni bảo Kim Cang ấn tam muội da.” * Thứ tư: Mộng thấy vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai đại ma ni bảo chủng tộc Tôn Thắng Đại Quán đảnh Đại mạn đà la ấn tam muội da phẩm, thấy ta và các Như Lai Đại ma ni bảo chủng tộc Tôn Thắng Phật đảnh đại ma ni Bảo Quán đảnh mạn đà la ấn bí mật thành tựu tam muội da. Được các Như Lai khen rằng: “Lành thay! Lành thay!, Thiên nam tử, ông nay được tất cả Như Lai Đai ma ni bảo chủng tộc Tôn Thắng Phật đảnh quán đảnh mạn đà la ấn bí mật tâm phẩm hiện tiền gia bị, pháp quán đảnh nầy là tất cả Như Lai Đại Như ý bảo chủng tộc bí mật tâm chơn ngôn tam muội da phẩm.” * Thứ năm: Mộng thấy vào mười phương quốc độ. Tất cả Như Lai bất thối chuyển Tôn Thắng đại quán đảnh bí mật mạn đà la ấn tam muội da, được các Như Lai thọ bất thối chuyển đại quán đảnh bí mật mạn đà la ấn tam muội da phẩm, được chư Như Lai đều khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông nay được mười phương quốc độ ba đời chư Phật, tất cả Như Lai bất thối chuyển Tôn Thắng Phật đảnh Đại quán đảnh Bí mật mạn đà la ấn tam muội da phẩm.” * Thứ sáu: Mộng thấy ta và mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai ngồi cội Bồ đề, nơi toà Kim Cang thành Đẳng Chánh giác, làm Đại pháp vương quán đảnh địa pháp. Thấy khắp mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai ngồi toà sư tử thọ tất cả Như Lai Bất thối Pháp vương quán đảnh đại pháp. Chư Như Lai đều khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Người thật bền chắc, nay được tất cả Như Lai bất thối Như Lai quán đảnh hộ niệm lâu dài không bỏ.” * Thứ bảy: Mộng thấy Như Lai Thích Ca Mâu Ni nơi cội Bồ đề, ngồi toà Kim Cang, phóng Đại quang minh, chuyển Đại pháp luân, đốt đại pháp cự, Vũ đại pháp võ, dựng đại pháp tràng, thổi đại pháp loa, đánh đại pháp nhạc, phá đại ma quân và thấy mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai ngồi Cội bồ đề nơi toà Kim Cang chuyển đại pháp luân, dẹp đại ma quân, Tối Thắng đại bí mật mạn đà la ấn tam muội gia phẩm. Thời chư Như Lai đều khen rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử, ông được chân ngôn bảo kiên cố giải thoát chuyển pháp luân Đại quán đảnh bí mật mạn đà la ấn tam muội da.”
Như vậy, y pháp cần phải cố gắng quán tưởng thọ trì đọc tụng không có gián đoạn, tức được bảy loại mộng tốt. Chứng nhất thiết Như Lai năm Đảnh Luân vương Tôn Thắng Phật Đảnh, còn gọi là Trừ Chướng Phật Đảnh Luân vương chơn ngôn thần biến pháp, nhập vào mười phương quốc độ ba đời tất cả Phật Đảnh Luân vương Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai đại nạn đà la ấn tam muội da hội. Nhập tất cả tam muội da xứ. Được thấy mười phương quốc độ ba đời tất cả Như Lai Tôn Thắng Phật Đảnh Luân Vương, Như Lai Đại Tỳ Lô Giá Na, bốn Ba la mật v.v…Đông phương Như Lai A Súc, Chấp Kim Cang Bí Mật Chủ v.v… Nam phương Như Lai Bảo Sanh, Hư Không Bảo v.v… Tây phương Như Lai Vô Lượng Thọ, Liên Hoa Nhãn v.v… Bắc phương Như Lai Bất Không Tất Địa, Tỳ Thủ Yết Ma v.v…bốn trí, bốn tam muội da v.v…vô lượng Thánh chúng sắc thân vi diệu cung kính cứng dường, giữ gìn mười phương quốc độ ba đời tất cả Tôn Thắng Phật Đảnh Tỳ Lô Giá Na Như Lai, tất cả danh hiệu được mưòi phương quốc độ ba đời tất cả Tôn Thắng Phật Đảnh Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai thọ cho Trừ Chướng Phật đảnh ấn đà la ni muội dạ thần thông pháp phẩm trên hết.
Nếu trong quá khứ đã tạo mười ác, năm nghịch, bốn trọng, các tội nặng nề thảy đều trừ sạch. Nếu có chúng sanh ở nơi có đoạ xứ được nghe Đại Quán Đảnh Quang Vương Tôn Thắng Phật Đảnh Luân Vương chơn ngôn qua tai một, hai, ba, bảy lần tức được tiêu trừ tất cả tội chướng. Nếu hành giả Du dà thương xót sáu nẽo hữu tình, ở nơi Đảnh núi cao lễ mười phương, mỗi phương tụng Tôn Thắng chơn ngôn một biến, mắt nhìn các loại chúng sanh, đều được xa lìa tất cả tội khổ. Đời sau được sanh vào cõi Bất Động Phật, hoặc viết trên phướn, treo trên đảnh núi cao, trên đầu ngọn cây, phướn bay hướng nào tất cả chúng sanh hướng ấy có các tội mười ác, năm nghịch, bốn trọng, thảy đều tiêu diệt. Hoặc viết chữ Phạn, an trí trên phướn, cũng được như trên đã nói.
Bảy loại mộng tốt tương ưng, nên biết hành giả Du dà mau được chứng Phổ Hiện Sắc Thân Đại Tam ma địa, nhập vào Vô Sanh Bình Đẳng năm trí, thành tựu thân Như Lai Đại Tỳ Lô Giá Na.